Việc gây khó dễ cho Phổ chỉ là tiện tay của Franz, chính phủ Áo sẽ không vì thế mà đầu tư quá nhiều tài nguyên, bởi lẽ điều quan trọng nhất lúc này vẫn là phát triển nội bộ.
Cùng lúc với việc Chiến tranh Schleswig bùng nổ trở lại, các cuộc đàm phán giữa Nga và Áo cũng đã kết thúc. Sau gần nửa năm nỗ lực, hai nước cuối cùng đã đạt được thỏa thuận về lợi ích của mỗi bên. Ngày 21 tháng 3 năm 1849, Đại sứ Áo tại Nga là Wesenberg cùng Ngoại trưởng Nga Karl Woselrod đã ký kết "Hiệp định Thương mại Nga – Áo" tại Sankt-Peterburg.
Nội dung hiệp định bao gồm:1. Hai nước dành cho nhau quy chế tối huệ quốc, thuế quan thương mại không được vượt quá nước thứ ba.2. Hai nước hình thành một liên minh thương mại mang tính phòng thủ, tuân thủ nguyên tắc tự do mậu dịch (nếu một bên xảy ra chiến tranh với nước thứ ba, hoạt động thương mại giữa hai bên vẫn diễn ra bình thường).3. ...
Những điều khoản thương mại sơ sài này rõ ràng không phải là thành quả nửa năm nỗ lực của chính phủ hai nước. Điều thực sự đáng giá mà hai bên coi trọng chính là các mật ước đã ký kết, bao gồm "Liên minh Quân sự Nga – Áo" và "Phân chia Ảnh hưởng Nga – Áo".
Nội dung "Liên minh Quân sự Nga – Áo":1. Kể từ ngày ký kết hiệp ước, hai nước chính thức thiết lập liên minh quân sự.2. Nếu một bên bị ngoại bang xâm lược quân sự, điều đó sẽ được coi là tuyên chiến chung với cả hai nước.3. Khi một bên tuyên chiến với nước thứ ba, có thể yêu cầu đối phương viện trợ, bao gồm viện trợ vật chất và quân sự.4. ...
Không còn nghi ngờ gì nữa, "Liên minh Quân sự Nga – Áo" là sự tiếp nối, thậm chí còn tiến xa hơn một bước so với "Công ước Berlin", chỉ khác là Phổ không phải là một bên ký kết. Do Chiến tranh Schleswig, Sa hoàng Nikolai I vô cùng bất mãn với Vương quốc Phổ, và sự bùng nổ của cuộc chiến này cũng đánh dấu sự kết thúc của thời đại "Ba Triều đình Phương Bắc".
So với liên minh quân sự, "Phân chia Ảnh hưởng Nga – Áo" mới là nền tảng của liên minh giữa hai nước, nơi mỗi bên nắm giữ mọi thứ mình cần.
Hiệp ước quy định:1. Áo thừa nhận chủ quyền hoàn toàn của Đế quốc Nga đối với các eo biển Biển Đen, eo biển Dardanelles và các vùng đất ven biển (bao gồm Constantinopolis, bán đảo Anatolia và một phần khu vực Balkan).2. Áo thừa nhận các quyền lợi của Đế quốc Nga ở Viễn Đông.3. Chính phủ Áo thừa nhận lợi ích của Đế quốc Nga ở khu vực Trung Á.4. Chính phủ Áo thừa nhận quyền lợi của Đế quốc Nga ở Ba Tư.5. Hai nước cùng nhau chia sẻ lợi ích ở bán đảo Balkan và Địa Trung Hải.6. Đế quốc Nga thừa nhận chủ quyền của Áo đối với vùng Nam Đức.7. Đế quốc Nga thừa nhận lợi ích của Áo ở lưu vực sông Danube.8. Đế quốc Nga thừa nhận lợi ích của Áo ở vùng Ý.9. Đế quốc Nga thừa nhận lợi ích của Áo từ việc mở rộng thuộc địa hải ngoại....
Hai bên đã thỏa thuận rất rõ ràng: Ngài ủng hộ ta giành được các vùng đất ven Biển Đen, ta ủng hộ ngài sáp nhập các bang Nam Đức, và chúng ta cùng nhau chia sẻ quyền bá chủ ở bán đảo Balkan và Địa Trung Hải. Ngoài những lợi ích cốt lõi này, miễn là lợi ích của hai bên không xung đột, họ sẽ hỗ trợ lẫn nhau.
Việc Nga và Áo đạt được sự đồng thuận trong việc mở rộng ảnh hưởng của mỗi bên cũng có nghĩa là "Công ước Eo biển" do Anh chủ đạo không còn giá trị. Không có sự ủng hộ của Áo, việc Anh và Pháp muốn kiềm chế tham vọng của Nga ở khu vực Cận Đông đã trở nên rất khó khăn.
Theo thỏa thuận giữa hai bên, Áo sẽ giành được vùng Nam Đức, khu vực Bosnia, hơn một nửa Serbia và hơn một nửa Romania, cùng một phần khu vực Bulgaria. Về diện tích lãnh thổ, vẫn chưa bằng một nửa của Nga; về phát triển kinh tế, cả hai bên đều không thể sánh bằng Pháp hay Bỉ. Vào thời đại này, các vùng ven Biển Đen là những khu vực phát triển, tinh hoa của Đế quốc Ottoman đều tập trung ở đó, trong khi các khu vực khác của Áo, trừ các bang Nam Đức, đều chưa được khai thác.
Khi so sánh lợi ích của hai bên, Franz cũng hiểu tại sao trong lịch sử Nga và Áo lại trở mặt: người Nga đã lấy quá nhiều, khiến chính phủ Áo phải đỏ mắt. Quan trọng hơn, một khi tham vọng của người Nga thành hiện thực, Đế quốc Áo sẽ không còn được yên giấc.
Ban đầu, Franz cho rằng lợi ích ở eo biển Biển Đen là đủ để thỏa mãn người Nga, cùng lắm là thêm nửa bán đảo Balkan. Thực tế chứng minh hắn đã lầm, người Nga đã khoanh cả bán đảo Anatolia vào. Nếu "gấu xù" có khẩu vị tốt như vậy, hắn dĩ nhiên không ngại thúc đẩy một chút: Áo thừa nhận Nga giành được bán đảo Anatolia, đổi lại người Nga sẽ nhượng bộ lợi ích ở bán đảo Balkan. Franz không quá bận tâm về phạm vi ảnh hưởng ở Balkan mà hai bên đã thỏa thuận; có được thì tốt, không được cũng không sao, miễn là chiếm được Beograd là đủ. Hiện tại, Đế quốc Áo vẫn chưa có khẩu vị tốt đến mức đó, ăn một miếng lớn sẽ bị bội thực. Nếu không phải vào thời đại này dân số Balkan còn chưa đông đúc, hắn thậm chí còn không dám động vào.
Tuy nhiên, đã diễn kịch thì phải diễn cho trọn vẹn. Nếu khẩu vị của Áo quá nhỏ, e rằng người Nga sẽ nghi ngờ có âm mưu đằng sau. Franz mạnh dạn đoán rằng, lúc này trong cung điện Sankt-Peterburg đang ăn mừng chiến thắng vĩ đại này.
Trong lịch sử, người Nga đã phá vỡ "Công ước Eo biển" bằng cách xuất binh giúp Áo trấn áp cuộc nổi loạn ở Hungary. Ở thời không này, chính phủ Áo không hề hỗn loạn, bản thân đã tự mình dẹp yên các cuộc nổi loạn, tự nhiên không cần sự giúp đỡ, và thù lao cũng không còn được nhắc đến. Nếu có "Công ước Eo biển", Chiến tranh Krym sau này sẽ không thể nổ ra, người Nga không thể đơn độc đối đầu với ba nước Anh, Pháp, Áo. Đây cũng là lý do trong lịch sử Áo đã phản bội người Nga, khiến họ không được lòng cả trong lẫn ngoài. Theo quan điểm của Anh và Pháp, nếu Áo không ban đầu dung túng người Nga, cuộc chiến này đã không thể nổ ra.
"Bệ hạ, hiệp ước này chúng ta quá thiệt thòi. Một khi nó trở thành sự thật, người Nga sẽ không ai có thể kiềm chế được!" Thủ tướng Felix cau mày nói.
Việc sáp nhập Nam Đức là quốc sách do chính ông, với tư cách là Thủ tướng, chủ đạo. Nhưng khi nhìn thấy cái giá phải trả để thỏa hiệp với người Nga, ông đã hối hận.
"Nếu người Nga không làm lớn chuyện, chúng ta có cơ hội sáp nhập vùng Nam Đức sao? Các nước châu Âu ai muốn thấy Áo tiếp tục lớn mạnh hơn?" Franz hỏi ngược lại.
Metternich kích động nói: "Bệ hạ, thả người Nga ra thì dễ, nhưng muốn chặn họ lại thì khó. Huống hồ, chúng ta thực sự có thể sáp nhập các bang Nam Đức sao? Nếu người Nga thực sự chiếm lĩnh các khu vực kể trên mà chúng ta còn chưa nuốt trọn Nam Đức, thì Áo cũng sẽ mất đi tương lai."
Franz bình tĩnh nói: "Đừng để lợi ích che mờ đôi mắt. Bề ngoài, hiệp ước này rất có lợi cho người Nga, nhưng trên thực tế, các khanh có nghĩ rằng với quốc lực của Nga, họ có thể chống đỡ kế hoạch này không? Lần này người Nga muốn nuốt chửng Đế quốc Ottoman trong một hơi, chính phủ Sultan nhất định sẽ liều chết chống cự, cuộc chiến này rõ ràng sẽ không kết thúc trong thời gian ngắn. Người Pháp vẫn còn rất nhiều lợi ích ở khu vực Cận Đông, họ không thể nào để mặc người Nga bành trướng; không chừng hành động của người Nga còn khiến chính phủ Pháp đoàn kết lại để cùng chống lại ngoại bang. Người Anh thì càng không cần nói, đối với đối thủ cạnh tranh là người Nga, họ bao giờ mới buông lỏng cảnh giác? Việc ủng hộ Đế quốc Ottoman là tất yếu, không chừng họ còn phải kéo người Pháp cùng ra trận. Đừng nhìn thực lực của người Anh dường như chỉ ở trên biển, nhưng không chịu nổi họ có tiền. Chỉ cần người Ottoman chưa chết sạch, họ có thể khiến cuộc chiến này tiếp tục kéo dài. Cho dù người Nga có mạnh đến đâu, cuối cùng họ cũng sẽ bị kéo sụp. Trừ phi chính phủ Sa hoàng biết điểm dừng, sau khi chiếm được Constantinopolis thì ngừng mọi hành động quân sự và chuyển sang phòng thủ. Với quốc lực của Nga, việc bảo vệ một thành phố pháo đài không khó, hao tổn vài năm công sức, Anh và Pháp dĩ nhiên sẽ từ bỏ. Sau đó, người Nga lại từng bước gặm nhấm Đế quốc Ottoman. Nếu không có bất trắc, e rằng sau ba mươi đến năm mươi năm nỗ lực, mục tiêu sẽ gần như đạt được. Thời gian lâu như vậy đủ để chúng ta làm rất nhiều việc. Đến lúc đó, Đế quốc Áo chưa chắc đã yếu hơn Nga."
Nhắc đến người Pháp, Franz lại muốn cười. Trong thời cận đại, nếu có vương triều Habsburg nào phá sản hơn, thì đó chính là người Pháp. Đế quốc Ottoman không thể tính, con đường phá sản của họ còn chưa chính thức bắt đầu, hiện tại vẫn còn nhiều lãnh thổ rộng lớn.
Từ thế kỷ 18, người Pháp đã bắt đầu con đường bi kịch của họ. Nếu có ai chú ý sẽ nhận ra, tài sản của Đế quốc Thực dân Pháp thứ nhất trong thời kỳ đỉnh cao thực sự rất vững chắc. Thất bại trong Chiến tranh Kế vị Áo, mất đi khu vực Ấn Độ; mất Canada trong Chiến tranh Bảy năm; sau khi ủng hộ độc lập của Hoa Kỳ, ngay lập tức Chiến tranh Chống Pháp bùng nổ, lại bị Hoa Kỳ ép mua vùng Louisiana (mười lăm triệu đô la mua hai triệu sáu trăm ngàn cây số vuông lãnh thổ). Đây mới chỉ là khởi đầu. Nếu lịch sử không thay đổi, người Pháp còn phải lần lượt từ bỏ các quyền lợi ở Trung Mỹ, bao gồm kênh đào Panama, cùng với vùng Ai Cập do người Pháp chiếm ưu thế... Sự suy tàn của người Pháp trực tiếp nuôi béo người Anh và người Mỹ. Hai đế quốc lớn này sau đó đều giẫm lên vai người Pháp để trở thành đế quốc thế giới. Dĩ nhiên, trong đó cũng không thiếu công lao của vương triều Habsburg; không có sự cống hiến vô tư của họ, người Anh cũng không thể trỗi dậy, người Mỹ tự nhiên không cần nói.
Franz cuối cùng đã thuyết phục được nội các. Dĩ nhiên, hiệp ước đã được ký kết, ván đã đóng thuyền, và điều đó cũng đã tạo ra một động lực rất lớn. Về lý thuyết, chỉ cần Anh và Pháp chịu ra sức, việc người Nga muốn thực hiện tham vọng vẫn còn khó khăn. Bản chất suy yếu của Đế quốc Ottoman chưa bị lộ rõ, mọi người vẫn còn kỳ vọng vào họ. Nếu người Nga chọn chiến lược bảo thủ, từ từ phấn đấu, thì càng không cần phải sợ. Trong ba mươi đến năm mươi năm, đã đủ để Đế quốc Áo hoàn thành công nghiệp hóa, đồng thời tiêu hóa hết vùng Nam Đức.
Đề xuất Đô Thị: Mệnh Danh Thuật Của Đêm