Vấn đề này không chỉ tồn tại ở Áo, mà còn ở Phổ, Pháp, Anh, Nga và các quốc gia châu Âu khác, nơi giới quý tộc chiếm vị trí chủ đạo trong quân đội. Tình trạng này kéo dài cho đến khi Thế chiến kết thúc. Trải qua sự tôi luyện của Thế chiến, các chỉ huy quý tộc chịu tổn thất nặng nề, không đủ lực lượng dự bị để bổ sung, và cuối cùng đã đánh mất quyền chủ đạo trong quân đội.
So với các nước khác, Áo vẫn còn may mắn, bởi những quý tộc Đức chiếm vị trí chủ đạo. Do mối quan hệ truyền thống, phần lớn họ có tố chất quân sự khá tốt. Những chỉ huy quý tộc này, trong thời đại đó, đều là những trí thức cao cấp hiếm có. Nếu có người thúc ép họ nỗ lực, việc đảm nhiệm các vị trí chỉ huy cấp cơ sở vẫn không thành vấn đề.
Vì tương lai của Áo, vì hạnh phúc của nhân dân châu Âu, và vì sự phát triển của toàn nhân loại, Hoàng Trữ cảm thấy rõ ràng thiên mệnh, rằng đây chính là ý chí của Thượng đế. Trách nhiệm lớn lao trong việc cải tạo thế hệ quý tộc Áo kế tiếp, ngài đã quyết định gánh vác, và giờ đây mới chỉ là khởi đầu.
***
Bánh xe lịch sử cuồn cuộn chuyển mình. Sau khi Cách mạng tháng Giêng tại Sicilia bùng nổ, nhanh chóng lan rộng ra miền Bắc Ý. Để bảo vệ an toàn cho Lombardy và Venezia, chính phủ Vienne cũng tăng cường viện quân đến các địa phương, thế cuộc tạm thời được ổn định.
Trước khi các cuộc đại cách mạng bùng nổ, giai cấp công nhân châu Âu cũng đang trong tình trạng "nước sôi lửa bỏng". Lấy Pháp làm ví dụ: Mức lương công nhân vô cùng thấp. Nam công mỗi ngày nhận khoảng 2 Franc, nữ công khoảng 1 Franc, lao động trẻ em từ 13-16 tuổi chỉ được 75 xu, và trẻ em từ 8-12 tuổi chỉ có 45 xu. Khi ấy, bánh mì đen rẻ nhất cũng có giá hơn 30 xu mỗi kilôgam, thu nhập của giai cấp công nhân chỉ đủ để miễn cưỡng duy trì sinh kế. (Số liệu năm 1840)
Bề ngoài, có vẻ như nam công được đãi ngộ tạm ổn, còn nữ công và lao động trẻ em thì vô cùng thấp. Trên thực tế, các nhà tư bản không phải người ngu, họ sẽ tối đa hóa lợi nhuận. Số tiền này đều phải đổi bằng sinh mạng, nam công phải gánh vác những công việc chân tay nặng nhọc hơn rất nhiều. Hầu như mỗi ngày họ phải làm việc tới mười lăm, mười sáu giờ. Làm việc nhiều, thể lực tự nhiên tiêu hao nhanh, nhu cầu bổ sung năng lượng cũng không hề ít. Điều này cũng có thể thấy rõ qua tuổi thọ trung bình: Sức lao động nặng nhọc khiến tuổi thọ trung bình của công nhân chưa tới 40 tuổi, thậm chí nhiều ngành nghề lao động chân tay nặng còn thấp hơn 35 tuổi.
Năm 1846, do nắng nóng và hạn hán, lúa mì và đậu thất thu, nguồn lương thực chính của Pháp vì thế bị đe dọa nghiêm trọng, dẫn đến giá lương thực tăng vọt. Năm 1845, 100 lít lúa mì có giá 17,15 Franc, đến năm 1847 tăng lên 43 Franc; tại các tỉnh vùng sông Rhine, giá vọt lên 49,5 Franc, và một số khu vực cá biệt còn vượt quá 50 Franc. Đặc biệt ở miền Bắc và Đông Bắc Pháp, giá ngũ cốc phổ biến tăng từ 100% đến 150%, giá bánh mì tăng gấp đôi. Mọi thứ đều tăng, duy chỉ có tiền lương không tăng, cuộc sống của giai cấp công nhân dĩ nhiên là vô cùng khó khăn.
Họa vô đơn chí, năm 1847, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Anh lại lan sang Pháp. Giá lương thực tăng lên không hề liên quan đến nông dân; họ chỉ là những người chịu ảnh hưởng bởi sản lượng lương thực sụt giảm, thu nhập giảm mạnh, khiến sức mua nội địa của Pháp suy yếu. Trong bối cảnh đó, các sản phẩm công nghiệp giá rẻ của Anh tràn vào, ngành thương mại Pháp lập tức bị giáng một đòn cảnh cáo. Năm 1847, giá trị sản xuất công nghiệp của Paris là 14,3 tỷ Franc, đến đầu năm 1848 đã giảm xuống còn 6,7 tỷ Franc. Sự sụt giảm mạnh mẽ này cho thấy ngành thương mại Pháp đã lâm vào cảnh khốn đốn. Chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi, hơn ngàn xí nghiệp tại Pháp đã phải đóng cửa. Đằng sau sự đóng cửa hàng loạt của các xí nghiệp, dĩ nhiên là sự ra đời của một đội quân thất nghiệp khổng lồ, khiến mâu thuẫn xã hội tại Pháp ngày càng gay gắt.
Trong bối cảnh đó, nền Quân chủ tháng Bảy chẳng những không đưa ra được biện pháp hữu hiệu nào, mà ngược lại còn tràn lan tham ô, tai tiếng không ngừng. Việc chính phủ Áo ban hành "Luật Bảo vệ Lao động" khi truyền đến Paris đã nhanh chóng gây chấn động trong nội bộ giai cấp công nhân. Chính phủ Paris, vốn chậm chạp trong nhận thức, muốn phong tỏa tin tức thì đã quá muộn, vả lại bản thân họ cũng không có đủ năng lực thực thi. Các cuộc đình công quy mô lớn của công nhân bắt đầu bùng nổ từ Paris, nhanh chóng lan rộng khắp nước Pháp và cả các khu vực khác ở châu Âu.
Đồng thời với các cuộc đình công lớn của công nhân, giai cấp nông dân cũng bùng nổ phong trào chống đói. Bắt đầu từ tháng 7 năm 1847, do mất mùa và khủng hoảng nợ nần, những nông dân phá sản đã dấy lên phong trào cướp lương thực. Họ phá hủy các trang viên của địa chủ, cưỡng chiếm các cửa hàng lương thực, và đánh chết những kẻ đầu cơ lương thực. Phong trào này còn lan đến các thành phố, những công nhân thất nghiệp không chịu nổi đói khát cũng tham gia, được sử sách gọi là "Náo loạn bánh mì".
Trật tự xã hội không ngừng sụp đổ, cũng dẫn đến sự bất mãn của giai cấp tư sản đối với chính phủ. Vốn dĩ trong cuộc khủng hoảng kinh tế, mọi người đều chịu tổn thất nặng nề, vừa mới chuẩn bị kiếm lời từ lương thực để bù đắp phần nào những thiệt hại. Thế nhưng, họ nhận ra nông dân Pháp quá hung hãn, giai cấp công nhân cũng có sức chiến đấu mạnh mẽ. Người dân không mua nổi thì trực tiếp ra tay cướp bóc, vậy thì còn để các nhà tư bản sống sao?
Lúc này, giai cấp tư sản Pháp cũng bắt đầu phân hóa. Trừ một bộ phận có lợi ích gắn liền với chính quyền, phần lớn đều là những người phản đối nền Quân chủ tháng Bảy. Bao gồm phe đối lập vương triều và phái Cộng hòa, trong đó phái Cộng hòa lại chia thành: phái Quốc dân Báo và phái Cải cách. Mặc dù các phái chính trị có chủ trương khác nhau, nhưng vì mục tiêu phản đối nền Quân chủ tháng Bảy, họ đã tạm thời liên kết với nhau.
Sự bất lực của chính phủ Guizot là điều không cần bàn cãi. Phe đối lập đã tổ chức tới 70 buổi yến tiệc lớn nhỏ trên toàn quốc, nhiều nơi còn công khai hô vang khẩu hiệu cách mạng, nhưng không ngờ lại không bị trấn áp. Chính phủ vô năng đã khiến những người cách mạng nhìn rõ thực lực của họ, và bắt đầu chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Đối với người dân Paris, các cuộc tuần hành thị uy đã trở thành chuyện thường ngày. Ngày 22 tháng 2 năm 1848, do bất mãn việc chính phủ cấm các buổi yến tiệc, người dân Paris đã xuống đường biểu tình. Cụ thể chuyện gì đã xảy ra, Hoàng Trữ cũng không rõ. Tóm lại, lịch sử dường như đã có một chút thay đổi nhỏ, tối hôm đó người dân Paris đã khởi nghĩa, Cách mạng tháng Hai bùng nổ.
Sau khi khởi nghĩa bùng nổ, hàng ngũ cách mạng nhanh chóng mở rộng, học sinh, công nhân, thị dân, nhà tư bản đều tham gia. Dĩ nhiên, rất ít nhà tư bản trực tiếp cầm vũ khí ra trận, họ đều đứng sau hậu thuẫn. Chính phủ Guizot, bị cách mạng đánh thức, vội vàng điều động quân đội trấn áp cách mạng. Đáng tiếc, họ đã đánh giá thấp tình quân dân như cá với nước của Pháp. Ngay cả trong quân đội cũng không thiếu những người ủng hộ cách mạng, phần lớn quân Quốc dân Tự vệ từ chối thi hành lệnh của chính phủ, và một bộ phận quân đội còn trực tiếp phản bội.
Những chuyện sau đó, Hoàng Trữ cũng chỉ có thể dựa vào suy đoán, bởi những thông tin chi tiết hơn không còn dễ dàng có được. Tóm lại, chiều ngày 23 tháng 2 năm 1848, Quốc vương Pháp Louis-Philippe, để xoa dịu thế cuộc, đã bãi nhiệm chính phủ Guizot và bổ nhiệm phái tự do Barrot tổ chức nội các, với ý đồ làm nguôi ngoai cơn giận của giai cấp tư sản.
Đề xuất Voz: Người con gái áo trắng trên quán bar