Bà Ngự mù
Những năm 70 của thế kỷ trước, nước nhà lạc hậu, nông nghiệp kém phát triển, quê em cũng như bao vùng quê khác vài nhà lại có một chiếc cối xay lúa. Ông em vẫn kể thời ấy thỉnh thoảng vẫn có tốp thợ 2 3 người đi làm cối xay tứ xứ khắp miền Bắc. Tốp thợ này đa phần xuất phát từ một làng nghề chuyên làm cối xay ở Phú Xuyên Hà Nội bây giờ. Họ sẽ đến nhà nào cần làm, ăn ngủ tại nhà người ta rồi đến khi làm xong sẽ lấy công 2 3 đấu thóc.
Lại kể về bà Ngự, là con gái út trong một gia đình đông con, bà lớn lên như bao đứa trẻ bình thường khác trong xóm. Khi tròn 7 tuổi, chẳng biết vì lý do gì, mọi người thường thấy bà đi lơ ngơ ngoài đường, thỉnh thoảng lại cười nói vu vơ. Nhà vốn đông người, cha mẹ lại là người dân tộc thiểu số nên tất cả chỉ lớn lên như cây cỏ, tất cả chỉ trông chờ vào trời đất nên biết bà Ngự như thế mọi người cũng không quan tâm lắm đến những hành động ngu ngơ của đứa trẻ 7 tuổi.
Một năm sau, năm bà Ngự 8 tuổi bỗng nhiên bỏ đi khiến cả nhà nháo nhác đi tìm. Dân làng em cũng hò nhau, trèo đèo lội suối, vào tận rừng núi gọi tên bà mãi mà không ai trả lời. Triền miên từ ngày này qua tháng khác, tin tức bà đã bặt vô âm tín. Nhớ thương, ân hận vì đã để mất con gái, người cha già tiều tụy đi trông thấy, ông trở nên ủ rũ, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đi đâu ông cũng hỏi về đứa con gái nhỏ của mình như một người thần kinh.
Cuối cùng 16 năm sau, năm 1970, bà Ngự đột nhiên về làng, chẳng ai biết bà đi đâu và đã làm gì để sống. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, một năm sau cả cha và mẹ bà đột ngột mất. Nhớ lại ngày đưa tang, nhiều người trong làng kể rằng hôm ấy trời mưa tầm tã, bà Ngự không khóc đưa tiễn cha mẹ mà cứ tru lên từng hồi như chó sói gọi bạn dưới ánh trắng khiến những người yếu bóng vía khiếp hãi.
Những tưởng cuộc sống như vậy đã quá bất hạnh với những người con trong ngôi nhà ấy, nhưng chuỗi bi kịch kéo dài vẫn chưa dừng lại. Đau đớn thay khi lần lượt tất thảy 7 người anh chị của bà lần lượt ra đi, để lại một mình bà bơ vơ. Nỗi ám ảnh về cái chết của 9 người trong ngôi nhà ấy, khiến mọi người lo ngại. Một đồn mười, mười đồn trăm, cả làng xôn xao vì những cái chết ấy. Mọi người mời thầy Biên đến để trừ tà cho gia đình bà. Sau một hồi làm phép rồi lấy máu chó vẩy khắp nhà, thầy Biên chỉ lắc đầu rồi nói: “Nhà này bị trời hành rồi, phải chịu thôi”.
Và rồi cũng không quá khó hiểu khi một người ngu ngơ như bà Ngự sau đấy lại ra bờ tre đầu làng để ngủ, có lẽ bà tâm trí bà không bình thường nhưng vẫn nhớ rằng căn nhà đau thương ấy có quá nhiều kỷ niệm. Ở đời có những người nghèo muốn có căn nhà che mưa che gió, nhưng bà Ngự, những hôm trời hè nắng như thiêu như đốt hay gặp hôm mưa xối xả như trút nước bà vẫn ngồi đó, dưới bụi tre, im lặng chịu trận rồi lại nhăn răng ra cười hề hề mỗi khi có ai bắt gặp.
Dân làng em ái ngại và tận sâu trong lòng, ai cũng lo lắng cho bà. Những năm ấy các bác ạ, mà chắc đến tận bây giờ, làng quê miền bắc, hàng xóm hay người cùng làng, cái tình, lúc nào cũng sâu đậm trong mỗi người. Bà thường đến nhà mọi người trong làng say gạo hộ, cái cối say bằng tre vẫn kẽo kẹt từng ngày theo bà để rồi người làng lại trả công một bữa ăn, mặc dù khi ấy đói khổ, nhưng cái đói cái nghèo vẫn không ngăn được người ta đùm bọc thương yêu nhau. Dân làng cũng làm cho bà cái chòi lá ngay bờ tre ấy nhưng được một hôm thì bà lại phá tan tành. Người ta lại mang cho bà chiếc võng thì bà cũng gỡ xuống. Bao nhiêu năm rồi bà vẫn ngồi như thế để ngủ, nhiều lúc thì đứng, cúi mặt xuống đất mà ngủ. Vài năm sau mắt bà mờ dần rồi mù hẳn. Cũng một kiếp người, bà cứ sống lay lắt như vậy trong sự thương hại của người làng cho đến một ngày…
Khi ấy là tiết xuân, vào thời điểm này, lại có tốp thợ làm cối xay gạo đến làng, ăn ngủ tại nhà gia chủ rồi khi xong sẽ lấy công. Bà Ngự vẫn sống cuộc sống như trước, đi say gạo hộ trong làng rồi về ngủ dưới gốc tre. Không ai hiểu có chuyện gì mà một vài tháng sau bụng bà Ngự dần dần to lên. Bà có thai, dân làng vẫn kháo nhau về tốp thợ đến vào mùa xuân kia vì người làng chắc có lẽ chẳng nỡ lòng làm thế với bà. Ai hỏi bà cũng không nói, có người ái ngại dẫn bà về nhà mình ở nhưng bà nhất quyết không chịu.
Mùa hè năm ấy, một đêm mưa rào, sáng, người ta thấy bà Ngự treo cổ ở gốc tre, miệng nhớt nhểu dãi, cái bụng to lùm lùm thâm tím. Một người hai mạng, cũng là chấm dứt cái kiếp sống khổ đau của đời bà. Không ai hiểu tại sao người ngu ngơ như bà lại có ý định và thực hiện cái hành động tự tử ấy được, nhưng người làng cũng chép miệng bảo với nhau: thôi, coi như hết kiếp này đi, để kiếp sau nó sung sướng hơn, chỉ tội đứa bé…
Và rồi vẫn gốc tre ấy, thỉnh thoảng đi qua mọi người lại nghe thấy tiếng cối xay kẽo kẹt, rồi thấy bà Ngự khi ngồi khi đứng, chỉ khác là trên lưng bà lúc này một đứa trẻ đang bám chặt vào cổ và đôi mắt bà, chỉ là hai hốc mắt trống hoác mà không hề thấy tròng.
Một con ma khiến lòng người đầy thương cảm…
và đến tận bây giờ, rằm mùng 1 dân làng em vẫn ra gốc tre thắp hương và khấn cho mẹ con bà Ngự…
(em cũng đã tận mắt thấy mẹ con bà 1 lần vào năm lớp 7 khi đi qua gốc tre :sweat:)}