Quê mẹ tôi ở Cẩm Khê, Phú Thọ. Trong ký ức nhỏ nhoi mờ nhạt, hình ảnh quê ngoại đọng lại chỉ là một bến đò, những bắp chân trắng ngần của mẹ, của các bác xắn quần lội sông xuống đò khi tôi còn được bế ẵm trên tay...
Có một dạo gia đình tôi tạm trú xã Trung Giáp, Phù Ninh, Phú Thọ. Mới hơn 10 tuổi, tôi đã tập hợp lũ trẻ trâu nghịch ngợm, phá phách. Cái gốc quê như bản năng thường trực, gặp cảnh, gặp người dân chân chất, hiền lành vụt trỗi dậy. Tôi bỗng nhận ra mình là người của nơi ấy.
Nơi tôi tạm trú là một vùng trung du bạt ngàn đồi cọ. Không hẳn là "rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt" như nhà thơ Tố Hữu đã kể, nhưng phải công nhận phong cảnh ở đây rất đẹp. Uốn mình men theo những chân đồi là con suối nhỏ ngoằn ngoèo. Ruộng bậc thang lớp lớp nối nhau, dân gọi là ruộng bềnh. Mỗi lần lội xuống, chân tôi cứ lún dần, lún dần, bùn đen sâu, bám mút chặt, bập bềnh thật...
Chỉ hơn tháng hè lang thang với bọn trẻ con mò cua, bắt ốc, đơm cá, giật cọ... tôi phát hiện trò hay nhất của đám trẻ địa phương là đánh ống lươn. Sau vài buổi đi theo chúng, tôi bắt đầu triển khai ý đồ tự tổ chức cho đám trẻ tạm trú đánh ống lươn.
Xe chở nứa, vầu của cơ quan vài ngày lại tập kết gần nhà. Lân la hỏi xin mấy chú tài không được, tôi rủ thằng em, tối mò ra xe rút trộm mấy cây vầu, giấu sau nhà. Đi học về, anh em tôi bỏ cả ngủ trưa, mày mò "chế tạo vũ khí". Chặt tre, chẻ nan đan hom, cưa ống vầu, vào bếp than tập thể nung đỏ dùi, dùi lỗ. Sau mấy ngày miệt mài, hai anh em bắt đầu sở hữu tài sản riêng đầu tiên trong đời là bộ ống đánh lươn, một công cụ đánh bắt lươn chuyên nghiệp. Sướng phát điên.
Ông bà già mải công việc, mấy chị em tự quản. Chiều chiều, hai thằng lấy cuốc, chọn chỗ đất ẩm, nhiều vết đất đùn, cạnh giếng nước hoặc bờ ao đào giun.
Giống giun xoăn to hơn giun đỏ mắc mồi câu cá. Thả giun trong ống bơ, lẻn vô bếp trộm muối ăn bỏ vào, giun giãy tung toé, nhớt nhèo nhèo, xoắn dính nhau, rồi nằm thẳng cẳng, tanh ngòm.
Xẩm tối, hai anh em cởi trần, gánh hơn chục ống lươn cao hơn đầu người, lấy giun quệt vào miệng hom, nhét xác giun vào ống, ra đồng. Bọn trẻ địa phương làm thế nào, tôi thao tác y thế. Vục nước vào ống, xóc xóc mấy cái, vẩy nước dọc bờ cho có mùi, bắt đầu thả.
Khoảng hơn tiếng lụi hụi, rải ống, phủ cỏ che phần đáy ống nổi trên mặt nước để nguỵ trang, xong xuôi về nhà vừa tối. Đêm đầu, thao thức suốt, không ngủ được chờ sáng. Sốt ruột, tò mò và sợ ngủ quên. Sợ sáng không kịp ra thu ống lươn trước giờ dân làm đồng, nhỡ nổi máu tham lấy mẹ mất cả ống, lẫn lươn.
Tờ mờ sáng, anh em tôi đã chui khỏi màn, đạp sương dò dẫm ra đồng. Ống lươn ngâm nước qua một đêm, nặng trịch. Thu gom xong, tìm bãi cỏ rộng, xóc hết nước, mở hom, thả lươn. Ống nhiều, vài con. Ống ít, một, hai con. Có ống xóc hết nước nhẹ bẫng, đổ ra chỉ thấy xác giun. Thỉnh thoảng, có con rắn nước phi ra, chạy loằng ngoằng, sợ té cả đái.
Bắt lươn muốn khỏi tuột, phải dùng ngón giữa, kẹp cổ. Những chú lươn thu được trong trận đầu với anh em tôi thật tuyệt vời.
Sau vài trận, tôi phát hiện ruộng nào nhiều lươn, cải tiến kĩ thuật làm mồi, tăng số lượng ống. Đánh lươn lúc đầu là trò chơi, sau như nghề tay trái của anh em tôi. Nguồn chất đạm chủ lực của gia đình trong hơn hai năm tạm trú gian khổ, thiếu thốn ở Trung Giáp chính là lươn, cua cá do trò nghịch ngợm của hai thằng.
Một kĩ thuật cực quan trọng chỉ anh em tôi biết, không phổ biến, là việc dụ lươn. Trước khi cố định miệng ống chìm 1/3 dưới bùn, tôi dùng ba đầu ngón tay vẽ một đường ngoằn ngoèo ở cửa miệng ống giống như là một đường đã trườn của lũ lươn. Lũ lươn dễ bị lừa, theo nhau chui vào ống. Năng suất của những trận đánh sau oách hơn hẳn từ khi tôi dùng mẹo này.
Nhà tôi có cái bể nước bằng xi măng cốt thép, bị cụt một chân. Suốt những năm tạm trú, mấy lần chuyển nhà, lần nào mẹ cũng mang theo. Cái bể này, hồi đó thành bể nuôi lươn. Tôi ra đồng, xách mấy xô bùn đổ hơn nửa bể. Mỗi lần đánh lươn về, con to thả vào bể để dành chờ ông già. Con nhỏ, mấy chị em ăn suốt cả tuần.
Món cha tôi thích nhất là lươn om với củ chuối, bi chuối và giềng mẻ. Cha tôi bảo, củ chuối là đặc sản của Thái Bình. Ngày xưa đói quá, củ chuối đã từng giúp nhiều gia đình sống sót sau nạn đói.
Cha tôi là người hiếu khách và thích uống rượu. Ông uống rượu suốt từ trẻ cho đến lúc nằm trên giường bệnh. Khách từ Hà Nội lên làm việc, ông mời hết về nhà ăn cơm, uống rượu. Dẫn khách ra vườn, ông chỉ bể chứa lươn, tự hào bảo, hai thằng con tôi đánh đấy.
Lươn dễ ăn, làm được nhiều món. Những món thường nhất là cuốn lá lốt nướng, băm chả xương xông, kho nục với trám đen, nấu măng, nấu cháo...
Lươn cá giờ nuôi rất nhiều, khá rẻ. Vào Nghệ An, gọi bát cháo lươn là sai, phải gọi ngược, vì lươn luôn nhiều hơn cháo.
Sau nhiều năm sau, cả nhà tôi có dịp trở lại Trung Giáp, cảnh núi đồi thơ mộng, hùng vĩ thuở nào không còn nữa. Rừng xà cừ cổ thụ, rặng chò chỉ thẳng tắp, những đồi cây mỡ bạt ngàn bị chặt hết rồi. Loang lổ đồi trọc, khe suối khô cạn, nền nhà cũ giữa rừng cây chỉ còn lại một bãi đất khô cằn. Cả tiếng chim kêu "bắt cô trói cột" nao lòng xưa giờ cũng không còn được nghe...
Note: Ghi nhớ địa chỉ mới Vozer.io, cấp tài khoản VIP xóa quảng cáo tại đây. Đề xuất Tiên Hiệp: Tâm Ma