Đi đi lại lại, được khoảng nửa tiếng thì có tiếng xe máy đi vào đầu ngõ. Nhìn ra cổng thì thấy lão béo bán thuốc đang đèo ai đó đằng sau, đi cùng là một xe nữa, trên xe là một thằng chừng tuổi bọn em, mặt lấc ca lấc cấc. Mấy người đó xuống xe, lão béo vội chạy trước mở cổng, vào sau lão là một ông già người Tàu, mặc bộ quần áo vải đúng y như kiểu dân cuối đời nửa phong kiến nửa thuộc địa bên đó. Ông này vừa vào, nhìn thấy em đứng đó thì nhếch mép cười một cái, ánh mắt sắc lạnh như dao. Sau rồi ông này quay sang phía thằng Việt, nói một tràng toàn tiếng Trung, nghe thì biết là toàn câu chúc tụng, khen xã giao, nhìn thằng Việt vừa nghe vừa cười gượng thì cũng đủ hiểu là lão chẳng có ý tốt gì. Sau rồi, lão quay sang em, hằn học nói bằng tiếng Việt lơ lớ: "Mày muốn sống thì nhấc được viên gạch ta ném ra!", nói rồi, lão ra bên cây cảnh, nhặt lấy nửa viên gạch rồi vứt ra chỗ sân xi măng. Lão nói thêm: "Mày muốn nhờ ai hay làm kiểu gì cũng được, chỉ cần nhấc viên gạch lên khỏi mặt sân là tao tha cho mày, bọn đệ tử và con cháu tao cũng không động đến mày!" Thằng D xấn xổ bước ra, kêu để nó xem thử thế nào, nhưng không hiểu sao thằng cốt đột này nó nhấc mãi, cạy, nậy đủ kiểu mà viên gạch cứ vẫn cứ trơ trơ, thằng Việt thì không bước ra được vì nó đã hết quyền ra mặt. Lúc này, nó chạy vào trong nhà lấy cái bọc vải điều kia ra cho em, kêu em mở ra, bảo dùng cái này mà bẩy lên. Em vừa mở ra thì tái cả mặt, trong đó chính là cây thương quý mà bữa trước em thấy trong động. Thằng Việt quay sang chỗ lão kia, cười khinh bỉ, còn lão thì vừa nhìn thấy cây thương đã tái mặt, nhưng lão nói: "Có mà không biết dùng thì cũng là đồ bỏ đi! Kiến ra cản nó lại cho cụ!". Vừa dứt lời thì thằng Kiến bước ra, rút từ sau lưng áo ra một cây côn nhị khúc. Lúc này cả ba thằng bọn em giận tím mặt, kêu lão tráo trở thì lão nói là lúc đặt điều kiện không có nói là bên lão không có người trợ giúp. Em lấy hết can đảm bước ra, nói: "Thế thì cho tôi khởi động được chứ!", thằng Kiến cười váng lên: "Thoải mái! Thoải mái, không ai thúc giục người chết đâu!".
Thế rồi em cầm lấy cây thương, thấy ban đầu thì nặng tay mà càng cầm thì càng thấy đằm, vừa tay vô cùng. Nhớ lại những chiêu võ mà thầy và ông nội truyền cho, em từ từ vung thương lên múa chầm chậm, sau thì đẩy nhanh nhịp lên, quay tít cây thương, tiếng rít gió kêu vù vù. Mấy lão kia hình như không ngờ là em có võ nên ngơ ngác nhìn, duy chỉ có lão già áo vải kia là vẫn bình tĩnh. Tính sẵn từ trước, trong lúc đang múa thương, em bất chợt lao ra, khía mũi thương xuống dưới rồi lấy thụp người xuống, lấy lưng làm tựa, gồn sức bảy một cái. Nhưng em đã tính thừa quá nhiều sức, vừa mới gẩy mà viên gạch đã bắn ra xa. Thằng Kiến thấy thế thì gào lên, vung cây côn lao vào em, bỗng nhiên, lão già kia quát một tiếng, kêu nó dừng lại. Sau đó thì lão căn dặn hai lão kia và thằng Kiến mấy câu bằng tiếng Trung, rồi tất cả đi về.
Xong chuyện em mới thở phào nhẹ nhõm, thằng Việt và thằng D chạy lại ôm lấy em mà hét lên, đấm lưng nhau bùm bụp. Tối hôm đó, khi em hỏi sao thằng Việt lại có cây thương này thì nó bảo:
- Tao mượn được của âm binh nhà Tây Sơn, nhưng phải đưa cả thằng D đi cùng để làm tin vì tao có nửa gốc là Trung Quốc. Nhưng mà mai mày phải tự đem lên động mà giả, bọn tao chờ ở chân núi.
Rồi thì nó dặn em học thuộc câu cảm ơn để lên đó trả thì nói một tiếng. Đến sáng hôm sau, em lại lên trên cái động đó, đặt cây thương vào chỗ cũ. Bước ra ngoài, em đứng nghiêm trang rồi nói to:
- Cảm cái ân cứu mạng! Ngày sau nếu kẻ con cháu giúp được gì thì xin tìm đến lúc tắt ánh nhật.
Em vừa nói dứt lời thì từ trong động có luồng gió lạnh toát như hơi tủ lạnh phả ra, nghe thoang thoáng có tiếng ậm ừ hài lòng.
Thế là mùa hè năm lớp 10 của em đã kết thúc như vậy. Sau đợt này thì mọi chuyện lắng xuống hẳn, ban đêm không ai còn nghe thấy tiếng chân trên đường làng nữa, bến sông cũng yên bình như ngày nào. Hết hè, em lại về Hà Nội, ngậm ngùi tạm biệt những người bạn tốt đã vì mình mà không quản gì đến tính mạng.