Logo
Trang chủ

Chương 1072: Kế hoạch bại lộ

Đọc to

Tại St. Petersburg, khi nhận được tin tức từ Viễn Đông, Nicolas II lập tức lao thẳng vào vùng biên giới hỗn loạn. Nguyên nhân và hậu quả dường như không quan trọng, điều khiến Nicolas II bận tâm chính là xung đột giữa Nhật Bản và Nga tại Viễn Đông bùng nổ, và trong mắt ông, người Nhật đã gây hấn trước.

Những mối thù cũ chưa được giải quyết xong với chính phủ Nhật Bản, nay lại bị khiêu khích, đương nhiên là không thể chịu đựng. Nếu không phải do phải cân nhắc tuyến đường sắt Siberia chưa phát huy hết công năng, áp lực hậu cần và các hạn chế khi tiến hành hành động quân sự, Nicolas II đã hận không thể tiêu diệt ngay Nhật Bản lúc này.

Tuy nhiên, đây chỉ là suy nghĩ chợt lóe qua. Tình hình quốc tế phức tạp và rắc rối, chỉ có kẻ ngu ngốc mới tùy tiện khơi mào chiến tranh. Chính phủ Sa Hoàng đang nghiêm túc chuẩn bị cho việc tiến xuống phương Đông, nhưng thời điểm và hoàn cảnh để thực hiện phải được cân nhắc thật kỹ.

“Ăn một hố, khôn ngoan phải nhìn xa trông rộng.”

Trong vài thập kỷ gần đây, đế quốc Nga không thiếu những thất bại trong chiến tranh, thậm chí thua nhiều hơn thắng, song chính phủ Sa Hoàng vẫn không ngừng vươn lên. Một lúc lại tiến xuống phương Nam, lúc khác quay ra phương Đông, vẻ ngoài mục tiêu chiến lược đa dạng thiếu ổn định nhưng thực chất là một chính sách khôn ngoan có tính toán chính trị sâu sắc.

Trong bối cảnh tranh bá giành ngôi vị giữa Britain và đế quốc Thần thánh La Mã, để trở thành cường quốc thứ ba thế giới, đế quốc Nga không thể không dè chừng và lo sợ. Thực lực của Nga vẫn còn yếu để chiếm ngôi bá chủ thế giới, nhưng cũng không đủ yếu để ngồi yên nhìn người khác lợi dụng thời cơ.

Dù mối quan hệ giữa Nga và Áo có vẻ tốt đẹp, nhưng chính phủ hai nước vẫn đầy nghi kỵ và không tin cậy lẫn nhau. Chính phủ Vienna không yên tâm về Nga, còn người Anh điều đó thì khỏi phải nói.

Nói theo một nghĩa nào đó, đế quốc Nga càng phát triển mạnh thì càng gây trở ngại cho hai bá chủ lớn. Nicolas II mặc dù tính tình do dự nhưng không phải là kẻ ngu ngốc. Dưới triều Aleksandr III, các lão thần vẫn còn, chính phủ Sa Hoàng chưa rơi vào khoảng tối tăm. Trong cuộc cạnh tranh bá quyền giữa đế quốc Thần thánh và Britain, Nga vẫn có thể tìm kiếm lợi ích nhất định.

Khi một trong hai nước phân định thắng bại, rất có thể đế quốc Nga sẽ chịu thiệt về lâu về dài. Với tầm vóc của đế quốc, dù ai làm chủ cũng đều dè chừng và tìm cách ép Nga; đứng ngoài cuộc cũng không phải lựa chọn.

Thực lực đế quốc Nga đã đủ để tham gia vào cuộc đấu bá quyền lần này ở một mức độ nhất định. Dù là Vienna hay Luân Đôn, họ đều không thể để một nhân tố bất ổn như thế tồn tại lâu. Tình thế hiện nay cũng không phải điều Nga mong muốn.

Kết cục tốt nhất là đế quốc Thần thánh và Britain kiệt sức cùng nhau, để Nga có cơ hội trỗi dậy. Nhưng rõ ràng điều đó không thể xảy ra. Cả hai đều mạnh, họ không thể đơn giản để đối thủ đè bẹp nhau, vì như vậy phía bên kia sẽ là đối thủ mạnh của họ.

Với lập trường chính phủ Sa Hoàng, lựa chọn duy nhất là chờ đợi và đón đầu cuộc chiến bá quyền, cố gắng gặt hái thành quả nếu có, từng bước mở rộng thực lực. Dù là chiến lược tiến phương Nam tại Ấn Độ hay mở rộng về phía Đông tại Đông Á, nếu thành công, Nga sẽ thay da đổi thịt, đứng ở đỉnh cao thế giới.

Tiếc rằng hai chiến lược lớn này đều vô cùng khó thực hiện, chính phủ Sa Hoàng đã từng thử nhưng đều thất bại.

Mười mấy năm trước trong cuộc chiến tranh tại Trung Á, chính phủ Sa Hoàng đã thử đánh giá thực lực Britain. Với lực lượng hải quân hùng mạnh cùng pháo binh Ấn Độ dày đặc, thật khiến người ta phải căng thẳng.

Dĩ nhiên, đây không phải là lý do để buông tha Ấn Độ. Dù quân số đối phương nhiều, nhưng sức chiến đấu lại không mạnh, điều này khiến quân đội đế quốc thích hợp trong chiến tranh. Cái chính khiến chính phủ Sa Hoàng dè chừng là thực lực quốc gia hùng hậu của đế quốc Anh. Miễn là Britain không buông tha, sự hao tổn với họ có thể kéo dài không ngừng.

Ngược lại, các thuộc địa khác của Anh không nhiều nhưng dân số lớn, dù có thay đổi mấy lần, chính phủ Anh vẫn vững vàng. Dân số năm trăm triệu là niềm tin lớn nhất của người Anh. Thời gian kéo dài, khả năng ngăn cản đế quốc Nga của họ cũng không hề nhỏ. Dù có sự hậu thuẫn của Thần thánh La Mã cũng khó lòng hiệu quả, đồng minh không đáng tin, và Vienna có thể phản bội bất cứ lúc nào.

Chiến lược xuôi nam bị tắt nghẽn, chiến lược tiến về phía Đông cũng không dễ dàng hơn. Đối thủ không phải quá mạnh, nhưng giao thông quá hạn chế.

Nhiều năm trước khi liên quân nhiều nước vây hãm đế quốc Nga ở Viễn Đông, chính phủ Sa Hoàng đã cảm nhận rõ áp lực về hậu cần. Chỉ có vài chục nghìn quân hậu cần, cung ứng trong nước không đủ, phải mua tiếp tế từ các nước láng giềng, trong đó có cả Nhật.

Một khi chiến lược tiến về Đông chính thức triển khai, hàng chục nghìn quân hậu cần là không đủ. Không có sự hỗ trợ hậu cần vượt quá một triệu binh lính, “Kế hoạch Vàng Nga” chỉ là mơ tưởng viển vông. Việc mua quân trang hậu cần từ các nước xung quanh chỉ có thể giúp phần nào, còn trên quy mô triệu quân thì không thể nào ngụy trang hay giả mạo.

Dù chính phủ Sa Hoàng có mạnh dạn chi tiêu, người Nhật cũng không thể mà bán cho họ. Bởi khi Nga bày binh bố trận tiến về Viễn Đông, sẽ phải đối đầu trực tiếp với Nhật. Viễn Đông chỉ có hai quốc gia độc lập, đứng đối nghịch với Nga trên cùng một mặt trận.

Số lượng kẻ thù không đáng sợ, chính phủ Sa Hoàng cũng không muốn hù dọa nhiều, vấn đề then chốt chính là áp lực hậu cần. Đừng nói tuyến đường sắt Siberia chưa thông xe, dù đã đi vào vận hành, chỉ dựa vào một tuyến đường sắt để vận chuyển hậu cần hàng triệu quân là điều không tưởng.

Nếu một lần không làm được, chỉ có thể tiến từng bước nhỏ, như cách tằm ăn từng sợi tơ. Tiếc thay chính phủ Sa Hoàng vừa mới bắt đầu bước đi, đã bị Nhật Bản đánh úp bất ngờ.

Điều phiền phức hơn là khi Nga dồn quân xuống Viễn Đông, đã không thể khống chế được Nhật mà thậm chí còn bị uy hiếp ngược lại. Hai bên không phải đại quân, song từ lúc này đến lúc khác không chịu nhường nhau nửa bước, đế quốc Nga cũng không hề có ý định buông tha đối thủ.

Bên ngoài nhìn vào, cho rằng chiến lược của chính phủ Sa Hoàng thiếu ổn định, nhưng trong thực tế chính là “ngoại giao linh hoạt”. Chỉ chờ thế sự quốc tế biến động lớn, Nga sẽ tận dụng cơ hội để tiến về phương Nam hoặc phương Đông, thậm chí đồng thời triển khai hai chiến lược lớn.

Chính phủ Sa Hoàng chờ đợi thời cơ đó, rất rõ ràng với Nicolas II, ông không chịu nổi chuyện nhẫn nhịn. Sau nhiều thất bại cùng xung đột, Nicolas II rất hận người Nhật.

Thủ tướng Sergei Witte khuyên can: “Bệ hạ, xin ngài hãy bình tĩnh. Người Nhật gây chuyện, chúng ta sẽ có ngày xử lý họ, không cần thiết phải tranh đấu đến mức diệt vong họ. Hiện nay chúng ta đang thua, nhưng nhìn từ một góc độ khác, điều bất lợi cũng có thể trở thành dịp tốt. Chính phủ Vienna luôn phản đối chúng ta tiến về Đông, việc đế quốc kia mở rộng gần đây nay đã tạo ra vết nứt trong quan hệ hai nước.

Tận dụng cơ hội này chính là lúc tốt để chữa lành mối quan hệ đó. Chúng ta có thể phát ra tín hiệu cho Áo biết rằng chiến lược tiến về Đông ở Viễn Đông của chúng ta bị tổn thương, nếu cần thiết, ta còn có thể phô bày bộ mặt muốn từ bỏ Viễn Đông để hỗ trợ cho chiến lược này. Xung đột với Nhật quan trọng là tạm hoãn mọi kế hoạch, kiên nhẫn chờ tuyến đường sắt Siberia hoàn thiện rồi tính toán thêm.”

Sergei Witte luôn kiên định với lợi ích tối thượng của quốc gia, không hề để tâm đến những lời sợ hãi trước đó.

Về chuyện tiêu diệt Nhật Bản, đó không phải lời nói suông. Nicolas II kế nhiệm không lâu đã cho chính phủ phác thảo kế hoạch hoàn chỉnh diệt Nhật.

Tất nhiên kế hoạch đó chỉ là trên giấy. Mọi quốc gia đều có hàng loạt chiến lược từ tin cậy đến không. Theo một nghĩa nào đó, chiến lược đó giống như một cuộc đấu trí óc giữa các quốc gia. Không phải bàn đến tính khả thi, mà là về ai có trí tưởng tượng bay cao nhất. Dù chỉ một phần mười kế hoạch được thực hiện cũng đủ khiến thế giới choáng ngợp.

So với những kế hoạch chinh phục thế giới hay chiếm đoạt thái dương điên cuồng, tiêu diệt Nhật Bản chỉ là chuyện nhỏ không đáng kể.

Trong toàn bộ các chiến lược của đế quốc Nga, đây là kế hoạch khả thi nhất.

Nghe lời thủ tướng, tâm trạng Nicolas II cũng dịu đi phần nào. Dù sao, ông cũng là quân chủ có khí độ, không thể tùy tiện truy cứu đến mức “tử quốc”.

“Ừm! Vậy thì cho họ tự do thêm vài ngày, rồi hãy cùng họ thanh toán món nợ cũ mới.”

Trong lòng Nicolas II vẫn chưa buông bỏ, hẳn là đang chờ thời cơ chín muồi để tìm người Nhật trả thù.

Dù vậy chuyện này cũng không quá quan trọng, ai ở đây cũng chẳng ưa gì người Nhật. Người Nga kiềm chế chưa bộc phát vì lực lượng bản thân chưa đủ mạnh.

Khi điều kiện đã chín muồi, giới cường giả chẳng ngại để người Nhật biết thế nào là “Gấu xù gầm thét” thực thụ.

Nói về thù hận, người Nga chắc chắn là số một hoặc số hai trên thế giới.

Ngoại giao đại thần Mihajlović trình bày: “Bệ hạ, người Mỹ giúp chúng ta xây dựng tuyến đường sắt Siberia có lý do sâu xa. Dựa vào tình báo chúng ta thu thập và phân tích, có thể xác định phía sau là bóng dáng của người Anh. Bộ Ngoại giao nhận định đây là âm mưu của người Anh nhằm giảm áp lực quân sự ở Ấn Độ, cố tình dẫn dụ ta tiến về Đông.

Điều này cũng giải thích tại sao người Mỹ kiên trì xây dựng tuyến đường sắt Siberia một đường thay vì hai.”

Ai chơi chính trị đều khôn ngoan, dù hiệu suất chính phủ Sa Hoàng hơi thấp, nhưng tầng lớp lãnh đạo hoàn toàn không yếu kém.

Tuyến đường sắt Siberia đã triển khai nhiều năm, chính phủ vẫn không từ bỏ việc tìm hiểu mục đích thực sự của Mỹ.

Sự thật chứng minh sự kiên trì đó có hiệu quả.

Dù Anh và Mỹ giữ bí mật đến đâu, khi giao dịch vẫn để lại dấu vết.

Ban đầu người Nga chưa nhận ra, nhưng qua thời gian, mọi chuyện trở nên bất thường.

Không cần tra xét hay chứng cứ cụ thể, chỉ cần chứng minh được người Anh có động cơ cùng năng lực âm mưu, đủ cho thấy chính phủ Anh đứng đằng sau.

Nicolas II mạnh mẽ đập bàn: “Quả thật là như vậy! Vì lợi ích quốc gia, tình hữu nghị không nên đặt nặng. Nhưng chuyện này không ảnh hưởng gì, coi như ta tận dụng người Anh. Họ giúp ta xây dựng tuyến đường sắt, ta tiết kiệm được khoản chi phí lớn. Chi phí sau này không cần trả cho họ, tin chắc người Anh đã thay ta thanh toán.”

Ngoài miệng nói thờ ơ, sắc mặt căng thẳng cho thấy Nicolas II thực sự không yên lòng.

Sau khi nhận ra mục đích của người Anh, Nicolas II càng phải thận trọng khi triển khai kế hoạch tiến về Đông.

Ông không hiểu người Anh mưu mô đơn giản đến thế, sẵn sàng tốn kém để dẫn dắt Nga tiến về phía Đông.

Nếu chỉ có một tuyến đường sắt thì hạn chế vận chuyển rất lớn, nhưng không có nghĩa không thể nâng cấp thành hai tuyến. Một khi có tuyến thứ hai, việc vận chuyển nhanh và lớn hơn rất nhiều.

Khi tuyến đường sắt được cải tạo xong, vấn đề giao thông, hạn chế tiến về Đông của Nga sẽ được giải quyết dễ dàng.

Lúc đó, sức mạnh Nga sẽ nạp toàn quốc lực chiến đấu, không còn gì cản nổi, trừ khi Viễn Đông hai quốc gia độc lập đó liên thủ lại với nhau – chuyện dĩ nhiên không thể nào xảy ra.

Từ tiếng súng đầu tiên của cuộc chiến Giáp Ngọ, người ta đã tiên đoán quan hệ giữa hai nước sẽ không bao giờ tốt đẹp.

Chỉ cần chính phủ Sa Hoàng thực hiện chính sách ngoại giao và tiến hành mở rộng có nhịp điệu, vấn đề sẽ được kiểm soát.

Tại Ấn Độ, Britain có thể ngăn chặn quân Nga, nhưng không có nghĩa họ cũng cản nổi tại Viễn Đông.

Nicolas II suy nghĩ một hồi, nhận thấy người Anh tuyệt đối không giúp Nga hoàn thành “kế hoạch Vàng Nga” một cách thiện chí.

Phải biết mâu thuẫn giữa Anh và Nga đã bộc lộ từ lâu; nhau đâm sau lưng đã trở thành chuyện thường ngày; giúp đối thủ mạnh lên chính là đi ngược lại bản chất của kẻ thù.

Vấn đề thực sự xảy ra ở đâu Nicolas II chưa rõ, nhưng từ thời điểm phải đối mặt với tình hình Viễn Đông, chính phủ Sa Hoàng bắt đầu thận trọng hơn.

...

Tại St. Petersburg xảy ra biến cố, nhưng chính phủ Nhật Bản hoàn toàn không hay biết.

Không phải do tổ chức tình báo của họ không nỗ lực, mà do chênh lệch thiên bẩm quá lớn, không tài nào thâm nhập hiệu quả.

Về tình báo thu thập về Nga, chính phủ Nhật chỉ dừng lại ở mức độ tin đồn từ báo chí, đài phát thanh, quán rượu. Việc mua chuộc gián điệp xâm nhập vào nội bộ chính phủ Sa Hoàng gần như không thể.

Không phải vì Nga quá kín tiếng, mà chính vì bí mật của Sa Hoàng là một lỗ hổng lớn trong mắt thế giới, như một chiếc sàng.

Tổ chức tình báo Nhật không thể lập công, đồng nghĩa với việc không có tiền tài trợ; thiếu tiền tài là chuyện lớn, khiến họ không thể tiến hành.

Kể từ khi xung đột Nhật-Nga bùng nổ tại Viễn Đông, chính phủ Nhật Bản hoảng hốt rất nhiều.

Đây là châu Âu sừng sỏ Nga, một trong cường quốc hàng đầu thế giới. Việc Nhật Bản không theo kịp thời đại trong nhiều thập kỷ gần đây không phải điều lạ.

Chiến tranh Philippines là ví dụ sinh động, từ một quốc gia đứng chót bảng như Tây Ban Nha còn có thể tranh chấp công bằng với Mỹ ở ngoại quốc.

Đối đầu đế quốc Nga còn mạnh hơn nữa thì càng không cần nói.

Tóm lại, chính phủ Nhật Bản không có đủ niềm tin để chống lại Nga.

Đó không phải vì sợ mà là tuân theo lương tâm.

Đừng nghe lời tuyên truyền dân gian kiểu “Ngày xưa phương Tây không thể bị dân da trắng đánh bại,” thực tế người trong ngành biết rõ chính bản thân mình thiếu năng lực.

Thành tựu duy nhất về quân sự của Nhật là sự phát triển nhanh chóng của hải quân.

Đáng tiếc thành quả này không hoàn hảo vì số lượng tàu chiến quá lớn khiến chính phủ Nhật Bản sau cuộc chiến Giáp Ngọ phải suy nghĩ làm sao nuôi đội hải quân đó.

Vẫn còn lỗ hổng lớn, khiến chính phủ Nhật ngần ngại khi giao chiến với các quốc gia châu Âu.

Họ lo sợ châu Âu liên minh can thiệp nếu thắng, không thể giữ được chiến lợi phẩm; thua thì đế quốc Nhật sẽ rơi vào bi kịch, thậm chí thành thuộc địa.

Bất kể thắng hay thua, Nhật Bản chắc chắn sẽ là bên thất bại.

Nếu chuyện đó xảy ra, đâu cần đấu tranh làm gì?

Hiện tại chủ nghĩa quân phiệt chưa lên ngôi, chính phủ do Đô đốc Ito Hirobumi chỉ huy vẫn kiểm soát tình hình vững chắc.

Ngoài tinh thần thượng võ thì chính phủ Nhật vẫn là một quốc gia bình thường.

Trừ đội ngũ chỉ huy trẻ tuổi có sĩ khí cao, quân lính hăng hái như hổ đó, tầng lớp lãnh đạo hoàn toàn không có hứng thú với chiến tranh trong ngắn hạn.

Đề xuất Voz: Độc hành – Hành trình vào cõi chết
Quay lại truyện Thần Thánh La Mã Đế Quốc
BÌNH LUẬN