Tiên sinh Hamm không hề tức giận khi không thể thuyết phục được những lão hồ ly kia. Ông biết rằng họ đã động lòng, chỉ là vì sự nhút nhát mà không dám bày tỏ. Bản thân ông cũng chẳng phải nhà cách mạng gì, chỉ vì lợi ích mà liên kết với đảng Cách mạng. Nếu có thể đạt được mục đích bằng phương thức hòa bình, kẻ ngu mới muốn làm phản. Đây là lục địa châu Âu, cho dù làm phản thành công thì sao? Vương hầu tướng lĩnh lẽ nào là trời sinh? Câu trả lời là: Có! Thành công, cùng lắm cũng chỉ là trở thành Tổng thống Cộng hòa tư sản, ngồi vào vị trí đó, e rằng còn không thoải mái bằng cuộc sống hiện tại của ông. Thất bại, lưu vong hải ngoại có lẽ đã là kết cục tốt đẹp nhất. Trước thực tế tàn khốc, sự nhiệt huyết cách mạng vốn không cao của Tiên sinh Hamm càng trở nên nguội lạnh. Giống như đại đa số các nhà tư bản khác, họ có thể ủng hộ đảng Cách mạng, nhưng tự mình lãnh đạo cách mạng thì thôi, họ không hề muốn làm Tổng thống.
Yến hội rất khó giữ bí mật. Câu chuyện xảy ra tại trang viên của Tiên sinh Vries ở ngoại ô Vienna nhanh chóng đến tai Metternich, dĩ nhiên những nội dung mật sau đó không nằm trong số đó. Tuy nhiên, Thủ tướng Metternich là một người tuân thủ quy tắc, ông luôn giữ vững ranh giới cuối cùng của đấu tranh chính trị, không hề lợi dụng cớ này để nổi giận, hay truy bắt các nhà tư bản tham gia yến hội với tội danh cấu kết đảng Cách mạng.
Chính vì giữ quy tắc mà ông lại thêm phiền não. Biết rõ các nhà tư bản đang mưu đồ, nhưng chỉ có thể bị động phòng ngự, tâm trạng của Thủ tướng Metternich đương nhiên không thể tốt đẹp. Dùng câu "nội ưu ngoại hoạn" để hình dung tình cảnh của ông quả là thích đáng nhất: bên trong có quý tộc rục rịch, bên ngoài có các nhà tư bản dòm ngó, tất cả đều chung một mục đích là muốn ông phải rời đi.
Từ mùa đông năm 1847, dân chúng Vienna đã có một cảm nhận trực quan: vật giá tăng lên, hơn nữa còn tăng với tốc độ chóng mặt. Đến cuối tháng 12 năm 1847, vật giá ở Vienna đã tăng bốn mươi bảy phần trăm. Các nhà tư bản đang từng chút một thăm dò giới hạn chịu đựng của dân chúng. Lúc này, mọi người đều đổ dồn ánh mắt về chính phủ Vienna, mong đợi chính phủ có thể đưa ra giải pháp. Hiển nhiên, mọi người phải thất vọng, chính phủ Vienna không có năng lực, hoặc chức năng, can thiệp vào vật giá. Mặc dù Thủ tướng Metternich đã nhiều lần áp dụng các biện pháp, nhưng cuối cùng hiệu quả thu được quá nhỏ. Ví dụ: chính phủ dán thông báo, trách lệnh thương nhân không được nâng giá vật giá, kết quả chẳng có tác dụng gì. Lại ví dụ: Thủ tướng nhiều lần hẹn nói chuyện với các nhà tư bản nhưng không có kết quả. Chính phủ còn khẩn trương điều động vật liệu từ bên ngoài vào Vienna, ý đồ bình ổn vật giá, đáng tiếc dưới sự cản trở của các nhà tư bản và sự ăn mòn từ nội bộ quý tộc, cuối cùng vẫn thất bại. Dĩ nhiên, cũng không phải hoàn toàn không có hiệu quả, ít nhất tốc độ tăng giá đã bị kiềm chế, không tăng vọt lên đỉnh điểm một lần.
Sau thất bại lần trước, nội bộ các nhà tư bản cũng không còn mấy tin tưởng lẫn nhau. Thấy có thể có lợi, không ít tiểu tư bản yếu kém đã không chờ được đến thời điểm vật giá đạt đỉnh cao nhất. Con người ai cũng ích kỷ, Franz rất rõ ràng, đằng sau sự tăng giá vật giá lớn ở Vienna còn có sự tham gia của các quý tộc, chỉ có điều họ đều là hành vi tự phát vì trục lợi, chứ không tham gia vào liên minh hành động của các nhà tư bản. Ý tưởng ban đầu của những người này có lẽ chỉ là muốn nhân cơ hội kiếm một khoản, nhưng cho đến bây giờ, tài sản dần dần mê hoặc ánh mắt con người, rất nhiều người đã lún sâu vào, không sao thoát ra được.
Tuy nhiên, vận may của họ không hề tốt đẹp, vừa đúng lúc gặp phải cuộc khủng hoảng kinh tế châu Âu. Từ năm 1845, khu vực châu Âu thường xuyên xảy ra mất mùa lương thực, giá lương thực quốc tế tăng vọt. Theo đà tăng của giá lương thực, dân chúng châu Âu vốn không giàu có đã phải chi tiêu một lượng lớn vốn vào việc ăn uống, sức mua thị trường châu Âu không ngừng suy giảm. Năm 1846, giá bông vải và sản phẩm dệt may của Hoa Kỳ tăng gần gấp đôi, số lượng lớn hàng hóa giá cao khiến lượng tiêu thụ sản phẩm dệt may sụt giảm. Theo sự sụt giảm của lượng mua bán hàng hóa, các nhà tư bản rất tự nhiên cắt giảm nhân sự, số người thất nghiệp ở Anh tiếp tục tăng trưởng, lượng vận chuyển hàng hóa đường sắt liên tục lập kỷ lục thấp mới, rất nhiều công ty đường sắt cũng lâm vào tình trạng thua lỗ. Năm 1847, bong bóng đường sắt Anh tan vỡ.
Thế giới chủ nghĩa tư bản từ trước đến nay đều là "rút dây động rừng". Bong bóng đường sắt tan vỡ, các dự án đường sắt đang trong quá trình xây dựng cũng theo đó mà đình công, nhu cầu sắt thép giảm xuống. Cuộc khủng hoảng này nhanh chóng lan đến ngành sắt thép và than đá. Tại quận Stafford, trong 137 lò luyện sắt, có 58 lò ngừng sản xuất. Sản lượng sắt giảm một phần ba trong vòng một đến một tháng rưỡi, sản lượng than đá cũng giảm gần hai phần mười. Tháng 11 năm 1847, tại Lancashire, một trong những trung tâm công nghiệp dệt của Anh, trong 920 nhà máy dệt, có 200 nhà máy ngừng hoạt động hoàn toàn, hơn một nửa số còn lại chỉ làm việc 2-4 ngày mỗi tuần. Hơn 70% công nhân bị thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp.
Cuộc khủng hoảng công nghiệp bùng nổ ở Anh đã không được các nhà tư bản Áo coi trọng. Dù là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 hay năm 1837 ở Anh cũng không lan đến Áo. Là một quốc gia phi công nghiệp hóa, ngay cả khi muốn bùng nổ khủng hoảng công nghiệp cũng không đủ tư cách, khả năng bùng nảng khủng hoảng kinh tế cũng vô cùng thấp. Rất nhiều người đã quên rằng Áo bây giờ không còn là Áo của ngày xưa nữa. Là một quốc gia bán công nghiệp hóa, Áo đã không thể "độc thiện kỳ thân" trong cuộc khủng hoảng kinh tế.
Những người Pháp là những người đầu tiên gặp xui xẻo. Sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế ở Anh bùng nổ, để vượt qua khủng hoảng, các nhà tư bản Anh bắt đầu phá giá hàng hóa ra nước ngoài. Người Pháp không kịp trở tay đã trở thành những nạn nhân đầu tiên. Đến cuối năm 1848, tổng sản lượng công nghiệp của Pháp đã giảm năm mươi phần trăm. Khu vực Đức cũng không ngoại lệ, vì thực lực công nghiệp yếu kém nên bị ảnh hưởng càng lớn. Mùa đông năm 1847, tại Krefeld, trong 8000 máy dệt có 3000 máy ngừng hoạt động. Hơn nửa năm 1848, tại Cologne, trong 14 nhà máy chỉ có 3 nhà máy hoạt động, công nghiệp Erfurt gần như bị xóa sổ hoàn toàn.
Các nhà tư bản Áo khóc ròng, các quý tộc muốn thừa dịp cháy nhà cướp của cũng khóc ròng. Để bình ổn vật giá, chính phủ Vienna đã hạ thuế nhập khẩu, một lượng lớn hàng hóa giá rẻ của Anh ồ ạt tràn vào, điều này thực sự không thể ngăn cản được. Nâng giá vật giá cũng cần tiền, đối mặt với sự phá giá của một cường quốc công nghiệp, các nhà tư bản Áo tuyên bố họ không phải người ngu. Những nhà tư bản nhanh nhạy đã ngay lập tức chọn rút lui.
Tháng 1 năm 1848, ngoại trừ giá lương thực tương đối ổn định, giá cả tất cả các sản phẩm thương mại ở Vienna đều sụt giảm mạnh. Trong thời khắc nguy cấp, ai nấy đều lo cho bản thân, ai còn nhớ đến người khác nữa? Những nhà tư bản nhanh chân chạy thoát còn có thể lợi dụng thời gian chênh lệch để giảm lỗ, những nhà tư bản chậm chân thì trực tiếp bị mắc kẹt. Cung lớn hơn cầu, giá sản phẩm thương mại trên thị trường Vienna đã giảm xuống dưới giá thành sản xuất của họ. Các nhà tư bản và quý tộc đã nâng giá vật giá buộc phải "cắt thịt chịu đau". Tất cả mọi người đều biết khủng hoảng kinh tế đã đến, để giảm thiểu tổn thất, các nhà tư bản thi nhau cắt giảm nhân sự. Nhiều nhà tư bản vì tổn thất nặng nề trong cuộc khủng hoảng này thậm chí đã đóng cửa nhà máy, số lượng người thất nghiệp ở Vienna tăng vọt.
Đề xuất Tiên Hiệp: Nhất Thế Độc Tôn