Ông ấy: May I have a coffee? (Tao gọi 1 ly cà phê được không?)
Tôi: Obvious! What kind of coffee do you prefer? (Được, mày thích uống loại nào?)
Ông ấy: A Cap, please. (1 ly cappuccino – tụi nó hay gọi tắt là cap.)
Tôi: Here you are, enjoy.
Lúc ông ấy uống gần xong thì bà barman lên quầy bar. Bà ấy nhìn một lượt toàn cảnh cái quầy bar lố nhố người, rồi nhìn tôi hỏi:
Bà ấy: Zụ gì đó mày?
Tôi: Em không biết, bữa nay lên kiếm ít việc làm mà thấy quá trời người. Em thấy quầy chưa set up nên em làm cho rồi.
Bà ấy: Tốt bụng dữ. Cà phê tính tiền chưa? (ý hỏi cà phê pha cho bọn kia uống)
Tôi: Rồi rồi, khỏi lo. (cười nhăn nhở)
Thằng Giám đốc bộ phận bỗng chen vào:
Ông ấy: Miss H, how are you today? (Cô H, cô khỏe không? - Giả tạo level max.)
Bà ấy: So so, how’s your coffee? (Tạm tạm, cà phê ngon không?)
Ông ấy: Very good. Do you train him? (Rất ngon, cô huấn luyện hắn hả? - chỉ phía tôi)
Bà ấy: Yup, any matter? (Ừa, có vấn đề à?)
Ông ấy: Nothing, You did it good. A waiter can control bar station without barman. That’s surprise. (Không có gì, cô đã làm tốt. Bồi bàn có thể kiểm soát quầy bar khi không có barman, ngạc nhiên đấy.)
Hai người đó trao đổi linh tinh gì một lúc nữa rồi cha giám đốc đi mất. Bà ấy lại nhìn mấy ly cà phê rồi hỏi:
Bà ấy: Em làm hết đó hả?
Tôi: Còn ai trồng khoai đất này. (vẫn cười nhăn nhở, nhưng phát hiện lần đầu bà ấy không gọi "mày tao" mà gọi "em")
Bà ấy: Cũng được.
Bà ấy liếc tôi, cười với tôi một cái rồi đi. Đó là lần đầu bà ấy cười với tôi đó các bác, mà bà ấy cười lên trông cũng khá. Nhưng tôi vui vì chuyện hoàn toàn khác. Lần đầu tiên sau chuỗi ngày cực nhọc, tôi cuối cùng cũng nắm trong tay một lợi thế vượt trội hơn những đứa công nhật khác. Tôi có thể kiểm soát quầy bar và làm cà phê rất ngon.
Đề xuất Voz: Tô Lịch: Sự Thật và Lịch Sử